Quan điểm niên lộc, kỵ và mệnh lộc kỵ

25 tháng 2

 Vì mỗi sao ảnh hưởng 2 cung, 4 sao Lộc Kị (2 niên và 2 mệnh) ảnh hưởng 8 cung, dù một số cung trùng nhau có thể cũng đủ cho ta thấy hình ảnh phác sơ của cách cục. Ta hãy thử ấn chứng xem sao. Phương pháp ấn chứng của tôi luôn luôn là dùng lá số danh nhân. Lần này xin dùng lá số ông Mao Trạch Đông

laso-maotrachdong

Luận:


Niên kị: Tham Kị nhập mệnh, mệnh can Canh Đồng hóa Kị nên niên Kị cũng có ảnh hưởng trên cung tử tức (và dĩ nhiên có tác dụng lớn trong đại hạn 33-42 tuổi)


Mệnh kị: Mệnh can Canh nên cung tử tức lại phải chịu hóa Kị thêm một lần nữa (có thể đoán ngay là tử tức xấu lắm). Cung tử tức can Đinh nên chuyển Kị sang Dậu (Cự Kị), là cung phụ mẫu (sau này sẽ giải thích tại sao như vậy phụ mẫu cũng chẳng tốt).


Niên Lộc: Phá Lộc nhập tài ở Thìn, chuyển Kị (can Bính) sang Liêm ở Di ở Dần, gây ra ảnh hưởng tốt ở cung này, (mặc dù ở đây có tự Lộc chẳng thể coi là lý tưởng). Với người đấu tranh giành thắng như ông Mao, không may mắn nào bằng may mắn ở cung di, ứng hoàn cảnh mà ông được hưởng hoặc phải đương đầu, nên đây là cách rất tốt cho ông! Nó cũng cho biết đại hạn Thìn của ông chẳng tệ (hai lần được trời cứu, một lần mượn tay Trương Học Lương năm 1936, một lần mượn tay quân Nhật từ 1937 trở đi).


Mệnh Lộc: Mệnh can Canh Nhật hóa Lộc ở huynh đệ (từ nay xin gọi là bào cho ngắn), nhưng bào can Kỉ, chuyển Kị (Khúc) trở về mệnh, tức là mệnh Lộc làm tốt cho chính ông Mao.


Những ai biết rõ đời ông Mao đều có thể thấy những dữ kiện trên đây rất ứng hợp với ông. Người nghi ngờ bảo biết đâu chỉ là tình cờ. Đồng ý như thế, và để tránh trường hợp “chọn chân cho vừa giày” tôi xin đưa thêm hai lá số danh nhân có sẵn và nổi tiếng khó xem của một người nổi trước ông Mao là ông Tôn Dật Tiên, và một người cùng thời với ông Mao, là ông Tưởng Giới Thạch.

Lá số Tôn Dật Tiên
laso-tondatthien

Niên Kị: Năm Bính Liêm Kị cư Giáp Ngọ là cung tử tức, Giáp chuyển Kị (Dương) nhập Hợi là cung phúc.

Mệnh Kị: Mệnh cư Đinh Dậu, Cự Kị nhập tài ở cung Quý Tị, Quý chuyển Kị (Tham) nhập Thìn là cung tật.

Niên Lộc: Năm Bính Đồng Lộc cư Đinh Dậu là cung mệnh, Đinh chuyển Kị (Cự) đưa Lộc đến cung tài ở Tị.

Mệnh Lộc: Mệnh Đinh Dậu khiến Âm hóa Lộc ở Tân Mão là cung di, Tân chuyển Kị (Xương) đưa Lộc đến Thân là cung bào.
Luận: Xét niên Kị trước. Liêm Kị cư Giáp Ngọ thì có thể dùng pháp luận của phái tam hợp nên đây tạm không bàn. Phúc trong phái Lương Châu là một trong hai cung “quả báo” (cung kia là di), nên bị niên Kị tràn sang là điềm bất tường, sẽ bàn thêm sau.

Mệnh Kị và niên Lộc cùng có ảnh hưởng trên cung tài. Đa số các phái phi tinh đều coi Lộc Kị một chỗ là “song Kị”. Phái Lương Châu phức tạp hơn, nhưng đây tạm chưa bàn tốt xấu vẫn khẳng định ngay được rằng cung “tài” là một yếu tố lớn trong đời ông Tôn. Sự thật quả là như vậy, vì ông luôn luôn phải làm việc gây quỹ để đấu tranh lật đổ nhà Thanh.

Mệnh Kị lan sang cung tật, lại ảnh hưởng Tham Lang. Tham ở cung tật ứng bệnh gan, đây chính là bệnh khiến ông Tôn qua đời năm 1925. Ông chết như vậy là chưa sống hết một con Giáp, coi là đoản thọ, có thể nói là ứng với điềm bất tường của cung phúc đã nói trên.

Mệnh Lộc ứng hai cung là di và bào. Cái may của di thật quý báu, vì nhờ đó mà đường đi lại của ông Tôn có những diễn biến ly kì e còn hơn tiểu thuyết, ngay cả khi bị bắt giam trong sứ quán nhà Thanh -để mang về xử tử- vẫn thoát nạn như thường. Còn bào thì rõ ràng ứng với người anh của ông ở Hawaii, nơi mà ông ghé qua năm 13 tuổi và ở lại khá lâu, hình thành ý tưởng cách mạng trong đầu. Người anh này tiếp tục yểm trợ ông một cách tích cực sau này trên đường tranh đấu.

Lá số Tưởng Giới Thạch
laso-tuonggioithach

Niên Kị: Sinh năm Đinh niên Kị ở Phúc (Ngọ, Cự), Phúc can Bính nên chuyển đi hóa Kị tiếp ở Phụ (Tị, Liêm).

Mệnh Kị: Mệnh can Giáp nên mệnh Kị ở Di (Tuất, Dương), Tuất can Canh nên chuyển Kị sang quan (Thân, Đồng).

Niên Lộc: Niên Lộc ở Mệnh (Thìn, Nguyệt), Mệnh can Giáp nên chuyển Kị (Nhật) đưa Lộc sang Di (Tuất). Thêm Mệnh Kị vừa nói đến ở trên, vậy là di có cả Kị lẫn Lộc.

Mệnh Lộc: Mệnh can Giáp nên mệnh Lộc ở Phụ (Tị, Liêm), Tị can Ất nên chuyển Kị (Nguyệt) đưa Lộc trở lại mệnh (Thìn).

Luận: Niên Kị ở ngay phúc là cung “quả báo” thì thấy ngay là chẳng có kết quả xứng ý. Phụ và Di trong phái Lương Châu có tính hiển hiện (dễ thấy, dễ quan sát), thêm quan cũng có Kị có thể đoán ông Tưởng vì công danh mà một đời lao toái.

Niên Lộc cho ta thấy cung di có cả Kị lẫn Lộc, rõ ràng cung di là một yếu tố lớn trong đời ông Tưởng, thành bại bất thường. Sẽ bàn thêm sau.
Mệnh Lộc cho thấy ông Tưởng là một loại người may mắn tương tự như ông Mao Trạch Đông. Thảo nào thất bại rồi vẫn hùng cứ một phương, chết rồi lại có con giỏi giang kế nghiệp.

Chẳng biết các độc giả nghĩ sao, chứ tôi thấy cách xem 8 cung của phái Lương Châu ứng với cả hai ông Tôn và Tưởng cũng như ông Mao vậy. Sự kiện này khiến tôi cảm thấy rất hứng khởi, muốn tìm hiểu thêm nữa về cách xem của phái này.

Trước khi tạm ngưng xin đưa một vấn đề khá lý thú ứng với cả hai ông Tôn và Tưởng. Hai ông đều có niên Lộc trong mệnh. Ông Tôn cung tài có cả Lộc lẫn Kị (niên Lộc –sau khi chuyển Kị- và mệnh Kị). Tương tự, ông Tưởng cung di có cả Lộc lẫn Kị.

Ta hãy thử dùng lý của phái Lương Châu để xét Lộc Kị của hai ông Tôn, Tưởng.

Trường hợp ông Tôn: Lộc Kị đấu tranh ở cung tài, cung là Quý Tị khiến Cự hóa Quyền, Cự ở ngay trong cung nên là tự Quyền, tiếp trợ cho Lộc đắc lực nhưng (vì là sao “tự hóa”) thiếu kế hoạch dài lâu, và dễ thiếu sót quản lý; có vẻ rất ứng với việc ông Tôn khá thành công trong việc đi khắp nơi kêu gọi người ta đóng góp tiền bạc cho ông đấu tranh cách mạng. Xét hạn thì ảnh hưởng mạnh vào hạn 26-35 (1891-1900) vì khi ấy hạn đến Hợi, cung Tị thành đại hạn thiên di. Sự thật quả ứng như vậy.

Vì đã bàn hóa Quyền, phải mở một dấu ngoặc về hóa Lộc (Đồng) trong cung mệnh của ông Tôn. Can của cung này (Đinh Dậu) khiến Đồng tự Quyền, vậy là cặp Lộc-Quyền đã nắm tay nhau ngay trong cung mệnh, thảo nào ông có quyết tâm mạnh mẽ hơn hẳn người thường. Dĩ nhiên tự Quyền có nhiều khuyết điểm, nên hoàn cảnh của ông Tôn dễ trở thành “có tiếng không có miếng”. Li kì làm sao, xem lại đời ông ta thấy câu này quả đúng. Danh vang thiên hạ, nhưng vừa được tôn lên làm đại tổng thống đã phải nhường cho Viên Thế Khải, rồi cứ thế “không có miếng” cả đời.

Trường hợp ông Tưởng: Lộc Kị đấu tranh ở cung di, Lộc đây lại là tự Lộc (cung Canh Tuất, Thái Dương tự hóa Lộc) thiếu nguyên tắc, không biết tận dụng hoàn cảnh, dễ để cơ hội đi qua hoặc bị người khác phỗng tay trên. Trong cảnh Lộc Kị đấu tranh rõ ràng bất lợi. Giả như không biết ông Tưởng là ai vẫn có thể đoán chủ nhân lá số nếu lên cao thì rất dễ té ngã. Sự thật quả ứng với việc ông Tưởng mất Hoa lục về tay Mao Trạch Đông. Xét đại hạn thì ông Tưởng mất Hoa lục trong hạn Tân Hợi (1942-1951). Tình cờ làm sao, can Tân khiến Quyền tác động vào Thái Dương bổ khuyết cho cái thiếu sót, sai lầm của tự Lộc. Thành thử các nhà phân tích đều cho rằng ông Tưởng chẳng thể giữ nổi Đài Loan, sẽ mất về tay Hoa lục trong vòng một năm. Nhưng ông Tưởng đã chứng minh rằng họ sai lầm. Đài Loan về sau lên hàng tiểu cường thành một trong năm con rồng nhỏ của Á châu cũng phải nói là ông Tưởng có công không nhỏ (mặc dù một lần nữa ông áp dụng chiến sách “nhất tướng công thành vạn cốt khô” bị người đời nguyền rủa vì “ác quá”).

Vấn đề song Kị

Ở trên tôi nói đến trường hợp có niên Lộc trong mệnh như hai ông Tôn, Tưởng mà quên nói trường hợp có niên Kị cư mệnh như ông Mao. Ta đã thấy (theo phái Lương Châu) ông Mao cung tử tửc có 2 Kị, một là mệnh Kị, hai là Kị chuyển từ niên Kị. Suy luận ra, hễ lá số có niên Kị cư mệnh tất phải có một cung bị 2 Kị đóng!

Trường hợp 2 Kị trong phái Lương Châu không phức tạp như trường hợp Lộc Kị, “bí quyết” phán đoán là cứ trên 1 Kị là không tốt, càng nhiều Kị càng xấu. Thành thử ta có thể khẳng định ngay rằng ông Mao tử tức có vấn đề. Theo tài liệu lịch sử ông Mao có khá nhiều con, nhưng đều chết hoặc mất tích, chỉ có một người con có bệnh ngu đần được sống quá tuổi trung niên.

Người nghi hoặc hỏi: “Có thể nào đây chỉ là tình cờ hay chăng?” Câu hỏi rất hay, nên xin ghi là chúng ta có một cách để ấn chứng xem phái Lương Châu có đoán đúng cho trường hợp người có Kị trong mệnh hay không. Tôi mới nghiên cứu cách xem của phái Lương Châu được nửa năm, nhìn nhận chưa đủ tài liệu để đưa đến kết luận cho vấn đề này. Hy vọng với thời gian đáp án sẽ sáng tỏ.

Ngoài ra, phái Lương Châu chủ trương tín hiệu cách cục phải có ý nghĩa thời gian (sẽ bàn thêm sau), nên có thể đoán hạn 33-42, ứng với mười năm 1925-1934, của ông Mao vô cùng lao toái (chú: Có trên một Kị trong cung đại hạn không nhất thiết là đại hạn xấu, nhưng lao toái thì chắc chắn). Đây chính là đại hạn hồng quân có cuộc “vạn lý trường chinh” (1934-1935) để khỏi bị đại binh của Tưởng Giới Thạch tận diệt, rõ ràng lao toái khỏi cần bàn.
Hình ảnh chủ đề của Mae Burke

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN VÀ MUA HÀNG TRỰC TUYẾN

Miễn phí giao hàng toàn quốc cho 10 mẹ bầu đăng kí đầu tiên

Gọi ngay nhận tư vấn

Bạn đang cần tư vấn ?